Dân tộc Thái là một trong những dân tộc thiểu số lớn ở Việt Nam, với tổng số người khoảng hơn 1,8 triệu người và phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế
Dân tộc Thái là một trong những dân tộc thiểu số lớn ở Việt Nam, với tổng số người khoảng hơn 1,8 triệu người và phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế
PV: Khi vận nước lâm nguy, lời thề độc lập chính là tiếng nói hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, dẫu phải hi sinh, chúng ta cũng quyết giành cho được hòa bình, độc lập. Và điều này được minh chứng rõ nét, sinh động trong cuộc đương đấu với đế quốc Mỹ, thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên?
TS Nguyễn Thị Liên: Ngày 17/7/1966, Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong lời kêu gọi lịch sử ấy, có câu nói nổi tiếng bất hủ và đã trở thành chân lý của mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn, để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, thống nhất niềm tin, củng cố ý chí để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trải qua chiến tranh ác liệt, Nhân dân ta càng thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Đất nước Việt Nam khi ấy nhỏ bé về địa lý, kiệt quệ về tài chính bởi chính sách vơ vét, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Nhưng nhờ sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục được. Chúng ta đã vượt qua.
PV: Thưa tiến sĩ, từ tinh thần quật khởi của dân tộc ta trong những ngày đầu lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà suy nghĩ thế nào về sức mạnh của tinh thần yêu nước Việt Nam trong suốt hành trình đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ núi sông, bờ cõi?
TS Nguyễn Thị Liên: Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống nhà Hán đô hộ, đến chiến thắng Đường, Tống, Nguyên, Minh, đánh bại 200.000 quân xâm lược nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII, đã chứng minh hùng hồn tinh thần yêu nước, quật khởi của nhân dân ta.
Những chiến công hiển hách ấy không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, sự đồng tâm nhất trí giữ nước và dựng nước của ông cha ta mà còn khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân. Nhân dân là người làm nên lịch sử, sức dân là vô địch. Chính những người dân chân lấm, tay bùn, biết bao đời lao động cần cù, hai sương một nắng, đã dời núi, lấp biển dựng nên hình hài Tổ quốc. Và đã biết bao lần mang xương máu của mình tạo nên bức tường thành vững chắc để giữ gìn, bảo vệ quê hương, đất nước tươi đẹp của chúng ta.
Thức ăn của người Cờ Lao chủ yếu được chế biến từ các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Thực phẩm chế biến từ các sản phẩm chăn nuôi bao gồm gà, lợn và dê.
Dân số: Theo số liệu của cuộc điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, dân tộc Thái có 1.820.950 người, trong đó có 910.202 nam và 910.748 nữ.
Cư trú: Người Thái là một trong những dân tộc thiểu số đông đảo ở Việt Nam, chủ yếu cư trú tại các tỉnh sau đây: Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, và Nghệ An. Tuy nhiên, quá trình di cư và phát triển kinh tế đã mở rộng địa bàn cư trú của người Thái ra các vùng khác, bao gồm cả các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.
Người Thái sử dụng ngôn ngữ Thái, một trong những ngôn ngữ của người Thái trong khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, người Thái ở Việt Nam cũng thường sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày và trong các hoạt động xã hội.
Người Thái sở hữu ngôn ngữ và văn tự độc đáo. Họ thuộc nhóm nói tiếng Thái trong ngữ hệ Kra-Dai (hay còn gọi là Tai-Kadai), được xếp vào họ ngôn ngữ cùng tên. Các ngôn ngữ Thái có tỷ lệ từ vựng chung cao do có cùng cội nguồn.
Các ngôn ngữ Thái chủ yếu là ngôn ngữ đơn âm tiết, có thanh điệu. Cú pháp chủ yếu là SVO (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Trừ những câu mệnh lệnh, ít có trường hợp đảo ngược thứ tự này. Tại Việt Nam, có năm vùng thổ ngữ Thái gồm:
Văn tự của người Thái có nguồn gốc từ hệ chữ Sanskrit của Ấn Độ. Trong lịch sử, chữ Thái cổ ở Việt Nam được thống nhất về cách cấu tạo và đọc, nhưng lại có tám loại ký tự khác nhau, bao gồm: chữ Thái Đen, chữ Thái Trắng Mường Lay, chữ Thái Trắng Phong Thổ, chữ Thái Trắng Phù Yên, chữ Thái Trắng Mộc Châu, Mai Châu, Đà Bắc, chữ Thái Lai Xư (Tay Thanh), chữ Thái Lai Pao (Tương Dương, Nghệ An), chữ Thái Lai Tay hay chữ Thái Quỳ Châu (Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp thuộc tỉnh Nghệ An).
Từ năm 1954 đến 1969, chữ Thái ở khu tự trị Tây Bắc được cải tiến, thống nhất và đổi tên thành Chữ Thái Việt Nam thống nhất. Từ tháng 5/2008, chữ Thái cải tiến mới được chính thức đưa vào sử dụng, được gọi là chữ Thái Việt Nam.
Chữ Thái Việt Nam (Tai Viet) được mã hóa trong khu mã Unicode U+AA80..U+AADF , tuy nhiên, các font chữ phổ biến hiện nay trong máy tính không hỗ trợ hiển thị các ký tự này.
Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, với số lượng người hiện nay khoảng hơn 160.000 người. Người Cờ Lao có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã di cư sang Việt Nam từ rất lâu đời. Theo các nghiên cứu lịch sử, những nhóm người Cờ Lao đầu tiên đã đến Việt Nam khoảng từ 150 đến 200 năm trước đây. Sau đó, những đợt di cư tiếp theo của họ đã kéo dài suốt nhiều thế kỷ, cho đến khoảng 60 – 80 năm trước đây.
Người Thái có truyền thống nông nghiệp phong phú và có nhiều kinh nghiệm trong việc đào mương, dựng đập, bắc máng lấy nước để làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính của họ, đặc biệt là lúa nếp. Ngoài ra, họ cũng trồng nhiều loại cây khác như hoa màu, trái cây, rau củ… để đa dạng hoá nguồn thực phẩm.
Ngoài nông nghiệp, từng gia đình người Thái còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của họ là vải thổ cẩm với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và bền đẹp. Điều này thể hiện khả năng thủ công của người Thái, đồng thời đóng góp vào sự đa dạng hóa văn hóa và kinh tế của địa phương.
Tục lệ cưới xin của người Cờ Lao khác nhau tùy theo từng nhóm. Tuy nhiên, trong nhóm Cờ Lao Xanh, chú rể sẽ mặc áo dài màu xanh và cuốn khăn màu đỏ qua người. Trong khi đó, cô dâu sẽ phải dẫm vỡ một cái bát và một cái muôi gỗ đã được sắp đặt trước cổng khi đến cổng nhà chồng. Ngoài ra, trong nhóm Cờ Lao Đỏ, cô dâu chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu.
Tuy nhiên, cách cưới kéo vợ hoặc cướp vợ cũng vẫn thường xảy ra tại một số nhóm người Cờ Lao, tương tự như trong văn hóa của người H’Mông.
Theo phong tục của người Cờ Lao, con trai sẽ được lấy vợ là con gái của cậu. Phụ nữ Cờ Lao khi mang thai thường kiêng cữ cẩn thận để đảm bảo sinh con khỏe mạnh. Tại vùng Đồng Văn, truyền thống đốt nhau của trẻ sơ sinh thành than, sau đó đem bỏ vào hốc đá trên rừng để tránh cho động vật như chó hay lợn giẫm vào. Sau khi sinh ra được 3 ngày 3 đêm (nếu là con trai) hoặc 2 ngày 3 đêm (nếu là con gái), cha mẹ sẽ tổ chức lễ đặt tên cho con. Đứa con đầu lòng thường được bà ngoại đặt tên.
Khi người Cờ Lao qua đời, gia đình sẽ tổ chức lễ chôn cất và lễ chay. Theo truyền thống, khi chôn cất, người thân sẽ xếp đá thành từng vòng quanh mộ, mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết. Sau đó, đất sẽ được lấp kín những vòng đá ấy.
Trong nghi lễ tang, người Cờ Lao có phong tục làm hai lần ma: lễ chôn và lễ làm chay. Ngay sau khi lễ chôn hoặc một vài năm sau đó, người Cờ Lao Xanh có thể tiến hành lễ làm chay. Trong lễ cúng, người chết được đưa hồn về Chan San, quê hương cổ xưa. Trong khi đó, người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ. Cứ mỗi 10 tuổi của người đã mất, người thân sẽ xếp thêm một vòng đá quanh mộ. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất và trên cùng còn có thêm một vòng đá nữa.
Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.