Nội Dung Cơ Bản Trong Giáo Lý Của Phật Giáo

Nội Dung Cơ Bản Trong Giáo Lý Của Phật Giáo

Mình không phủ nhận việc nỗ lực sẽ tạo ra những thành quả nhất định, nhưng có những thứ nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Với nhiều người, hạnh phúc và bình yên trong tâm hồn dựa vào những ý tưởng bất chợt của vũ trụ. Họ vui vào những thời kỳ đỉnh cao của sự nghiệp, và chán nản khi danh vọng tan biến. Khi sự tốt đẹp và nỗi đau đều không thể tránh khỏi, thì tại sao ta phải tự hành hạ bản thân bằng cách dùng hết sức lực đuổi theo vế đằng trước, đồng thời dùng gấp đôi nỗ lực để chạy trốn khỏi vế sau?

Mình không phủ nhận việc nỗ lực sẽ tạo ra những thành quả nhất định, nhưng có những thứ nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Với nhiều người, hạnh phúc và bình yên trong tâm hồn dựa vào những ý tưởng bất chợt của vũ trụ. Họ vui vào những thời kỳ đỉnh cao của sự nghiệp, và chán nản khi danh vọng tan biến. Khi sự tốt đẹp và nỗi đau đều không thể tránh khỏi, thì tại sao ta phải tự hành hạ bản thân bằng cách dùng hết sức lực đuổi theo vế đằng trước, đồng thời dùng gấp đôi nỗ lực để chạy trốn khỏi vế sau?

Chức Tư Tế và Các Chìa Khóa của Chức Tư Tế

Chức tư tế là quyền năng và thẩm quyền vĩnh cửu của Thượng Đế. Qua chức tư tế, Thượng Đế đã tạo ra và chi phối trời và đất. Qua quyền năng của Ngài, Ngài cứu chuộc và tôn cao con cái của Ngài, mang lại “sự bất diệt và cuộc sống vĩnh cửu cho loài người” (Môi Se 1:39).

Thượng Đế ban thẩm quyền chức tư tế cho các nam tín hữu xứng đáng của Giáo Hội để họ có thể hành động trong danh của Ngài vì sự cứu rỗi của con cái Ngài. Các chìa khóa của chức tư tế là quyền hạn của chủ tịch đoàn, hoặc quyền năng được Thượng Đế ban cho con người để lãnh đạo và hướng dẫn vương quốc của Thượng Đế trên thế gian (xin xem Ma Thi Ơ 16:15–19). Qua các chìa khóa này, những người nắm giữ chức tư tế có thể được phép để thuyết giảng phúc âm và thực hiện các giáo lễ cứu rỗi. Tất cả những người phục vụ trong Giáo Hội đều được kêu gọi dưới sự hướng dẫn của một người nắm giữ các chìa khóa chức tư tế. Do đó, họ có quyền có được quyền năng cần thiết để phục vụ và làm tròn các trách nhiệm của chức vụ kêu gọi của họ.

Phần tham khảo liên quan: GLGƯ 121:36, 41–42

Chức Tư Tế A Rôn thường được gọi là chức tư tế dự bị. Các chức phẩm của Chức Tư Tế A Rôn là thầy trợ tế, thầy giảng, thầy tư tế và vị giám trợ. Trong Giáo Hội ngày nay, các nam tín hữu xứng đáng có thể nhận được Chức Tư Tế A Rôn bắt đầu vào lúc 12 tuổi.

Chức Tư Tế A Rôn “nắm giữ các chìa khóa phù trợ của các thiên sứ và của phúc âm về sự hối cải và của phép báp têm” (GLGƯ 13:1).

Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc là chức tư tế cao hơn, hoặc lớn hơn, và thực hiện những sự việc thuộc linh (xin xem (GLGƯ 107:8). Chức tư tế lớn hơn này được ban cho A Đam và đã có trên thế gian bất cứ khi nào Chúa mặc khải phúc âm của Ngài.

Lúc đầu, chức tư tế này được gọi là “Thánh Chức Tư Tế theo Ban của Vị Nam Tử của Thượng Đế” GLGƯ 107:3). Về sau chức tư tế này được biết là Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc, đặt theo tên của thầy tư tế thượng phẩm sống trong thời kỳ của tiên tri Áp Ra Ham.

Trong Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc là các chức phẩm anh cả, thầy tư tế thượng phẩm, tộc trưởng, Thầy Bảy Mươi và Sứ Đồ. Chủ Tịch của Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc là Chủ Tịch của Giáo Hội.

Phần tham khảo liên quan: Ê Phê Sô 4:11–14

Trong Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô, một giáo lễ là một hành động thiêng liêng, long trọng có ý nghĩa thuộc linh. Mỗi giáo lễ được Thượng Đế thiết kế để giảng dạy các lẽ thật thuộc linh. Các giáo lễ cứu rỗi được thực hiện qua thẩm quyền của chức tư tế và dưới sự hướng dẫn của những người nắm giữ các chìa khóa chức tư tế. Một số giáo lễ là cần thiết cho sự tôn cao và được gọi là các giáo lễ cứu rỗi.

Giáo lễ cứu rỗi đầu tiên của phúc âm là phép báp têm bằng cách dìm mình xuống nước bởi một người có thẩm quyền. Phép báp têm là cần thiết cho một cá nhân để trở thành tín hữu của Giáo Hội và để bước vào vương quốc (xin xem Giăng 3:5).

Từ phép báp têm xuất phát từ một từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là dìm hoặc ngâm vào. Sự dìm mình tượng trưng cho cái chết của cuộc sống tội lỗi của một người và sự sinh lại của người đó vào một cuộc sống thuộc linh, tận tụy phục vụ Thượng Đế và con cái của Ngài. Sự dìm mình cũng tượng trưng cho cái chết và sự phục sinh.

Sau khi một người chịu phép báp têm, một hoặc nhiều người nắm giữ Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc đặt tay lên đầu của người ấy và xác nhận người ấy là tín hữu của Giáo Hội. Là một phần của giáo lễ này, được gọi là lễ xác nhận, người ấy được ban cho ân tứ Đức Thánh Linh.

Ân tứ Đức Thánh Linh khác với ảnh hưởng của Đức Thánh Linh. Trước khi chịu phép báp têm, một người có thể thỉnh thoảng cảm nhận được ảnh hưởng của Đức Thánh Linh và qua ảnh hưởng đó có thể nhận được chứng ngôn về lẽ thật (xin xem Mô Rô Ni 10:4–5). Sau khi nhận được ân tứ Đức Thánh Linh, một người có quyền có được sự đồng hành liên tục của Ngài nếu người này tuân giữ các giáo lệnh.

Các giáo lễ cứu rỗi khác gồm có lễ sắc phong Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc (cho nam giới), lễ thiên ân trong đền thờ, và lễ gắn bó hôn phối (xin xem GLGƯ 131:1–4). Tất cả các giáo lễ cứu rỗi của chức tư tế đều được đi kèm với các giao ước. Trong đền thờ, các giáo lễ cứu rỗi này cũng có thể được thực hiện thay cho người chết. Các giáo lễ làm thay cho người chết chỉ trở thành hiệu lực khi người chết chấp nhận trong thế giới linh hồn và tôn trọng các giao ước liên quan.

Các giáo lễ khác, chẳng hạn như ban phước cho người bệnh và làm lễ đặt tên và ban phước cho trẻ em, cũng rất quan trọng cho sự phát triển thuộc linh của chúng ta.

Phần tham khảo liên quan: Công Vụ Các Sứ Đồ 2:36–38

Một giao ước là sự thỏa thuận thiêng liêng giữa Thượng Đế và con người. Thượng Đế ban ra các điều kiện cho giao ước và chúng ta đồng ý làm điều mà Ngài bảo chúng ta phải làm; rồi Thượng Đế hứa với chúng ta một số phước lành vì sự vâng lời của chúng ta (xin xem GLGƯ 82:10).

Tất cả các giáo lễ cứu rỗi của chức tư tế đều được đi kèm theo các giao ước. Chúng ta giao ước với Chúa tại lễ báp têm và tái lập các giao ước đó bằng cách dự phần Tiệc Thánh. Các anh em nào nhận được Chức Tư Tế Mên Chi Xê Đéc sẽ bước vào lời thề và giao ước của chức tư tế. Chúng ta lập thêm các giao ước khác trong đền thờ.

Các phần tham khảo liên quan: Xuất Ê Díp Tô Ký 19:5–6; Thi Thiên 24:3–4; 2 Nê Phi 31:19–20; GLGƯ 25:13

Hôn nhân giữa một người nam và một người nữ đã được Thượng Đế quy định sẵn và gia đình là trọng tâm của kế hoạch cứu rỗi và hạnh phúc của Ngài. Hạnh phúc trong cuộc sống gia đình hầu như có thể đạt được khi được đặt trên những lời giảng dạy của Chúa Giê Su Ky Tô.

Những khả năng thiêng liêng về sự sinh sản chỉ có thể được sử dụng giữa người nam và người nữ đã cưới hỏi hợp pháp với tư cách là chồng và vợ. Cha mẹ phải sinh sôi nẩy nở và làm đầy dẫy trái đất, nuôi nấng con cái của họ trong tình yêu thương và sự ngay chính, và cung cấp những nhu cầu vật chất và tinh thần của con cái họ.

Vợ chồng có một trách nhiệm trọng đại là phải yêu thương và chăm sóc lẫn nhau. Những người cha phải chủ tọa gia đình mình trong tình thương yêu và sự ngay chính cũng như cung cấp cho những nhu cầu cần thiết của cuộc sống. Những người mẹ có trách nhiệm chính yếu để nuôi dưỡng con cái mình. Trong các trách nhiệm thiêng liêng này, những người cha và người mẹ có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau với tư cách là những người bạn đời bình đẳng.

Kế hoạch hạnh phúc thiêng liêng giúp mối liên hệ gia đình có thể được tồn tại sau cái chết. Thế gian được sáng tạo và phúc âm được mặc khải để gia đình có thể được hình thành, được làm lễ gắn bó, và được tôn cao vĩnh viễn. (Phỏng theo “Gia Đình: Bản Tuyên Ngôn cùng Thế Giới,” Ensign, tháng Mười Một năm 2010, 129).

Các phần tham khảo liên quan: Sáng Thế Ký 2:24; Thi Thiên 127:3; Ma La Chi 4:5–6; GLGƯ 131:1–4

Các giáo lệnh là luật pháp và những đòi hỏi mà Thượng Đế ban cho nhân loại. Chúng ta bày tỏ tình yêu mến của mình lên Ngài bằng cách tuân giữ các giáo lệnh của Ngài (xin xem Giăng 14:15). Việc tuân giữ các giáo lệnh sẽ mang lại các phước lành từ Chúa (xin xem GLGƯ 82:10).

Hai giáo lệnh cơ bản nhất là “hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. … Hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Ma Thi Ơ 22:36–39).

Mười Điều Giáo Lệnh là một phần thiết yếu của phúc âm và là những nguyên tắc vĩnh cửu cần thiết cho sự tôn cao của chúng ta (xin xem Xuất Ê Díp Tô Ký 20:3–17). Chúa mặc khải các giáo lệnh này cho Môi Se trong thời xưa, và Ngài đã tuyên phán lại những giáo lệnh này trong những điều mặc khải ngày sau.

Các giáo lệnh khác gồm có cầu nguyện hàng ngày (xin xem 2 Nê Phi 32:8–9), giảng dạy phúc âm cho những người khác (xin xem Ma Thi Ơ 28:19–20), tuân giữ luật trinh khiết (xin xem GLGƯ 46:33), đóng tiền thập phân đầy đủ (xin xem Ma La Chi 3:8–10), nhịn ăn (xin xem Ê Sai 58:6–7), tha thứ cho những người khác (xin xem GLGƯ 64:9–11), có một tinh thần biết ơn (xin xem GLGƯ 78:19), và tuân giữ Lời Thông Sáng (xin xem GLGƯ 89:18–21).

Các phần tham khảo liên quan: Sáng Thế Ký 39:9; Ê Sai 58:13–14; 1 Nê Phi 3:7; Mô Si A 4:30; An Ma 37:35; An Ma 39:9; GLGƯ 18:15–16; GLGƯ 88:124

Để biết thêm chi tiết về những đề tài này, hãy vào lds.org, Teachings, Gospel Topics; hoặc xem Trung Thành cùng Đức Tin: Tài Liệu Tham Khảo Phúc Âm (2004).